Thực đơn
Chiến_dịch_Barbarossa Phương án tác chiếnNgày 21 tháng 7 năm 1940, Adolf Hitler giao cho Bộ Tổng chỉ huy lục quân Đức soạn thảo Kế hoạch Otto. Tại Chỉ thị số 21 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế (Reich) ngày 18 tháng 12 năm 1940 và Chỉ thị về việc tập trung và triển khai có tính chiến lược các lực lượng quân đội ngày 31 tháng 1 năm 1941 đã chỉ ra những phương án cuối cùng được duyệt của kế hoạch này, đồng thời, thông báo lệnh của Quốc trưởng đổi tên thành Kế hoạch Barbarossa. Kế hoạch này dự định khởi sự ngày 15 tháng 6 năm 1941, tấn công và đánh chiếm Liên Xô (chủ yếu là phần lãnh thổ thuộc châu Âu) trong một thời gian ngắn ngay trước khi kết thúc chiến tranh với Anh. Ý đồ chiến lược của kế hoạch này là dùng ba đòn vu hồi liên tiếp chia cắt chính diện mặt trận Xô-Đức; hợp vây các lực lượng chủ yếu của quân Nga trên các vùng Pribaltic, Belorussia, Ukraina và miền Tây nước Nga (vùng phụ cận Smolensk). Trọng tâm tác chiến là sử dụng các tập đoàn quân xe tăng tiến hành những đòn đột kích sâu ở phía Bắc và phía Nam khu vực đầm lầy Pripiat (khu tiếp giáp giữa Belorussia và Ukraina), tiêu diệt những cách quân đã bị chia cắt trước khi tiến chiếm Moskva, Leningrad, vùng công nghiệp Donbass cũng như vùng đồng bằng trung và hạ lưu sông Volga[53].
Để có thể giành được một chiến thắng chớp nhoáng, quân Đức buộc phải nhanh chóng hủy diệt Hồng quân Liên Xô trong những chuỗi tấn công và hợp vây trên. Vì vậy mục tiêu chính yếu trước mắt của kế hoạch Barbarossa chính là Hồng quân Liên Xô và sau đó mới là đánh chiếm những vùng đất đai quan trọng hay đạt được những thắng lợi về chính trị. Bản thân Hitler đã nói: so với việc tiêu diệt Hồng quân thì "đánh chiếm Mạc Tư Khoa không thật sự quá quan trọng".[54] Chỉ thị số 21 đã nêu rõ ý định của Hitler như sau:
“ | Các lực lượng của Hồng quân ở miền Tây nước Nga sẽ bị hủy diệt bởi những chiến dịch táo bạo bao gồm những đòn tấn công thọc sâu của các lực lượng thiết giáp xung kích; và việc rút lui thành công của các nhân tố giúp đối phương có thể chiến đấu vào những vùng lãnh thổ mênh mông của nước Nga sẽ bị ngăn chặn. Bằng những cuộc truy kích thần tốc, chúng ta sẽ tiến tới được một giới tuyến mà ở đó Không quân Nga sẽ không thể nào tổ chức được một cuộc tấn công vào lãnh thổ của Đức. | ” |
— Chỉ thị số 21 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế, [55] |
Phương án tác chiến ban đầu của Kế hoạch Otto tháng 12 năm 1940 là dùng các đòn đột kích liên tiếp của nhiều thê đội xe tăng - thiết giáp mạnh (4 tập đoàn quân xe tăng), sử dụng chiến thuật "luân xa chiến", mở đường tấn công một mạch từ Brest qua Minsk (cách Brest gần 350 km)) và Smolensk (cách Minsk hơn 380 km) đến Moskva (cách Smolensk chừng 400 km) theo lối đánh "gạt đối phương ra để tiến"; nhanh chóng đánh tan cơ quan lãnh đạo tối cao của Nhà nước và quân đội Liên Xô tại Moskva và kết thúc sớm chiến tranh trong vòng vài tuần lễ[56]. Đến ngày 3 tháng 2 năm 1941, nhận thấy phương án này khá phiêu lưu do kéo dài tuyến mặt trận hai bên sườn và các đường tiếp tế cũng phải kéo dài, rất dễ bị Quân đội Liên Xô công kích và chia cắt từ hai phía Bắc và Nam (như đã xảy ra với quân đội của Napoleon năm 1812), các tướng lĩnh Đức Quốc xã đưa ra phương án cuối cùng, chia quân đội Đức ở mặt trận phía Đông thành ba cụm tập đoàn quân, tấn công trên ba hướng chiến lược:[57]
Cụm tập đoàn quân phụ trách hướng tấn công vào Tây Bắc Liên Xô, do Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb chỉ huy. Trên chính diện từ phía Bắc Goldapa đến Klaipeda trên bờ biển Baltic, cụm quân này được giao nhiệm vụ mở hai mũi vu hồi bằng đường bộ và đường biển, hợp vây các đơn vị thuộc Quân khu Pribaltic của Quân đội Liên Xô, tấn công dọc theo bờ biển Baltic hướng về Leningrad, bao vây và đánh chiếm thành phố này cùng với các cảng trên biển Baltic, bao gồm Tallinn và Kronstadt. Cụm tập đoàn quân này gồm 29 sư đoàn, được biên chế vào các đơn vị:
Phối hợp với cụm tập đoàn quân này có Tập đoàn quân sơn cước 20 (còn gọi là tập đoàn quân Lapland), bảy sư đoàn bộ binh Phần Lan tấn công từ phía Bắc eo đất Karelia, phân hạm đội Đông Baltic của Hải quân Đức từ phía biển và Tập đoàn quân không quân 3 yểm hộ từ trên không[60].
Đây là cụm quân chủ lực, có binh lực, hỏa lực và phương tiện mạnh nhất trong ba cụm tập đoàn quân Đức Quốc xã trong chiến dịch (hai trong số 4 tập đoàn quân thiết giáp của Đức - tập đoàn quân số 2 và số 3 - nằm trong cụm quân này[55]. Cụm này do Thống chế Fedor von Bock chỉ huy. Trên chính diện từ Goldapa đến thành phố Włodawy, Cụm tập đoàn quân Trung tâm có nhiệm vụ mở ba đòn vu hồi liên tiếp của hai tập đoàn quân xe tăng và một quân đoàn xe tăng độc lập, hợp điểm lần lượt tại Minsk, Smolensk và cuối cùng là Moskva. Các tập đoàn quân bộ binh tiến theo xe tăng có nhiệm vụ bao vây, tiêu diệt các đơn vị chủ lực của Quân đội Liên Xô ở phía Tây sông Neman (tức khu vực Ba Lan đang do Liên Xô chiếm đóng), phía tây sông Berezina (tức miền Tây Belarus) và cuối cùng là vùng phụ cận Moskva tại Rzhev - Vyazma.
Thống chế Fedor von Bock, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâmCụm tập đoàn quân này gồm 50 sư đoàn (trong đó có 15 sư đoàn xe tăng), được biên chế vào các đơn vị:
Cụm tập đoàn quân Trung tâm được các tập đoàn quân không quân 2 và 6 yểm hộ từ trên không[61].
Đây cũng là một cụm quân rất mạnh của Quân đội Đức Quốc xã do Thống chế Gerd von Rundstedt chỉ huy, gồm 46 sư đoàn (trong đó có 9 sư đoàn xe tăng). Chính diện tấn công từ Lublin đến cửa sông Danube trên bờ Biển Đen được chia làm hai hướng. Hướng Shepetivka - Kiev có 34 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng, hai sư đoàn cơ giới). Hướng Tarnopol - Odessa có 11 sư đoàn (trong đó có hai sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới). Hai mục tiêu hợp vây Quân đội Liên Xô được hoạch định là Kiev và bán đảo Krym. Biên chế của cụm quân này gồm có:
Các đơn vị này được sự yểm hộ từ trên không của tập đoàn quân không quân 4 của tướng Wolfram Freiherr von Richthofen.[59][62]
Ngoài 153 sư đoàn có mặt ở tuyến đầu, Quân đội Đức Quốc xã cùng chuẩn bị một lực lượng dự bị tuyến hai để phát huy chiến quả hoặc tiếp quản những vùng đất đã chiếm được sau khi các lực lượng tuyến một đẩy mặt trận lên phía trước. Tổng số lực lượng này có 24 sư đoàn[59], gồm có:
Toàn bộ Quân đội Liên Xô tại phần lãnh thổ châu Âu của họ được bố trí trên 10 quân khu[48]:
Đơn vị | Chính diện phòng thủ | Bộ binh nhẹ | Xe tăng | Bộ binh cơ giới | Kỵ binh | Tư lệnh | Chính uỷ | Tham mưu trưởng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quân khu Leningrad | 2.100 km | 12 sư đoàn 1 lữ đoàn | 3 sư đoàn | 1 sư đoàn | 3 sư đoàn | Trung tướng M. M. Popov | Chính ủy quân đoàn A. A. Zhdanov | Đại tá N. V. Gorodeski |
Quân khu đặc biệt Pribaltic | 380 km | 19 sư đoàn 1 lữ đoàn | 4 sư đoàn | 2 sư đoàn | Không có thống kê | Thượng tướng F. I. Kuznessov | Chính ủy quân đoàn P. A. Dibrova | Thiếu tướng P. X. Klenov |
Quân khu đặc biệt miền Tây | 640 km | 24 sư đoàn | 12 sư đoàn | 6 sư đoàn | 2 sư đoàn | Đại tướng D. G. Pavlov | Chính ủy quân đoàn A. F. Fominyk | Thiếu tướng V. E. Klimovskics |
Quân khu đặc biệt Kiev | 860 km | 32 sư đoàn | 16 sư đoàn | 8 sư đoàn | 2 sư đoàn | Thượng tướng M. P. Kirponosh | Chính ủy quân đoàn N.N.Vashughin (30-6), Chính uỷ lữ đoàn E.P.Rykov(1-7) | Trung tướng M.A.Purkaev (30-7), Thiếu tướng V.I.Tupikov (1-8) |
Quân khu Odessa | 320 km | 13 sư đoàn | 4 sư đoàn | 2 sư đoàn | 3 sư đoàn | Trung tướng Ya. T.Terevishenko | Chính ủy quân đoàn A. F. Koliabov | Thiếu tướng M. V. Zakharov |
Trên toàn tuyến mặt trận, binh lực được bố trí thành hai thê đội phòng thủ. 48 sư đoàn thuộc thê đội một bố trí cách biên giới quốc gia từ 10 đến 50 km. Trong đó, bộ binh bố trí phía trước, xe tăng, cơ giới, pháo binh bố trí xa hơn. Chủ lực các quân khu tổng cộng 101 sư đoàn bố trí ở tuyến hai cách đường biên giới quốc gia từ 80 đến 300 km. Hai bên sườn quân khu Leningrad, sườn phải Quân khu Pribaltic và sườn trái Quân khu Odessa có hải quân tuần duyên và pháo bờ biển bảo vệ. Ngoài ra, còn có trên 200 đồn biên phòng thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ, quân số mỗi đồn tương đương một trung đội bố trí ngay trên đường biên giới[64].
Từ giữa năm 1940, Bộ Quốc phòng Liên Xô đã giao cho Bộ Tổng tham mưu mà trực tiếp là tổ kế hoạch tác chiến lần lượt do nguyên soái B. M. Shaposhnikov, đại tướng K. A. Meretskov và trung tướng N. F. Vatutin phụ trách xây dựng kế hoạch phòng thủ biên giới quốc gia. Sau ba bốn lần được đưa ra Hội đồng Quốc phòng Liên Xô để bàn thảo và chỉnh sửa; đến tháng 4 năm 1941, bản Kế hoạch được đích thân Stalin phê chuẩn và chính thức mang mật danh "KOVO-41"[65][66].
Nội dung kế hoạch gồm 4 điểm cơ bản cần thực hiện:
Theo kế hoạch này, hướng tấn công được coi là nguy hiểm nhất của quân đội Đức Quốc xã vào Liên Xô là hướng Tây Nam (Quân khu đặc biệt Kiev và Quân khu Odessa). Stalin hoàn toàn đồng ý với nhận định này[67]. Kế hoạch "KOVO-41" được chia ra theo các nhiệm vụ cụ thể của từng quân khu và lần lượt được gửi kèm theo các Chỉ thị số UN/584814 và UN/584815 ngày 8 tháng 4 năm 1941 của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô đến các Quân khu để hướng các hoạt động triển khai kế hoạch này. Các chỉ thị yêu cầu:
Cho đến khi có chỉ thị đặc biệt các khu phòng thủ giữ nguyên trạng thái cũ. Khi chiến tranh nổ ra, cần tiến hành các biện pháp:Cũng trong khuôn khổ "KOVO-41", ngày 13 tháng 5, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô điều động 28 sư đoàn từ các quân khu ở sâu trong nội địa ra phía Tây: Tập đoàn quân 22 từ Ural ra đến Velikiye Luki, tập đoàn quân 21 từ Privolga đến Gomel, tập đoàn quân 19 từ Bắc Kavkaz đến Belaya Tserkov, tập đoàn quân 16 từ Zabaikal đến Shepetivka, quân đoàn bộ binh nhẹ 25 từ Kharkov đến Tây Dvina[69].
Bốn điểm mấu chốt của "KOVO-41" mãi đến sáng ngày 22 tháng 6 mới có quyết định thi hành và được diễn giải bằng một bức điện khá dài và không rõ nghĩa trong khi hàng trăm sư đoàn Đức đã vượt biên giới và hàng nghìn máy bay Đức đã trút bom xuống lãnh thổ Liên Xô. Khi các Phòng tác chiến của các Quân khu biên giới mở các phong bì tuyệt mật chứa kế hoạch "KOVO-41" thì Quân đội Đức Quốc xã đã bắt đầu tấn công được hơn 3 giờ đồng hồ. Theo nguyên soái I. Kh. Bagramian (khi đó là Đại tá, Trưởng phòng tác chiến Quân khu đặc biệt Kiev), chỉ cần Bộ Tổng tham mưu phát một bức điện ngắn với nội dung "KOVO-41 có hiệu lực" là đủ[70].
Thực đơn
Chiến_dịch_Barbarossa Phương án tác chiếnLiên quan
Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh Pháp – Đại Nam Chiến dịch Điện Biên Phủ Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 Chiến tranh Pháp–Phổ Chiến tranh Đông Dương Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia Chiến dịch Hồ Chí MinhTài liệu tham khảo
WikiPedia: Chiến_dịch_Barbarossa http://www.militaryhistoryonline.com/wwii/articles... http://www.ruslib.com/MEMUARY/GERM/shirer1.txt_Pie... http://www.english.uiuc.edu/maps/ww2/barbarossa.ht... http://www.foia.cia.gov/CPE/CAESAR/caesar-25.pdf http://klio.ilad.lv/11_1_.php http://www.army.mil/cmh-pg/books/wwii/balkan/20_26... http://www.army.mil/cmh-pg/books/wwii/balkan/appen... http://www.ushmm.org/wlc/article.php?lang=en&Modul... http://www.jourclub.ru/12/202 http://www.krunch.ru/blog/history/29.html